Thời kỳ trước thế kỷ XX
Từ hàng ngàn năm trước đây, mặc dù chưa có những hiểu biết về cơ sở lý thuyết của hóa sinh, con người đã biết sử dụng một số ” quá trình hóa sinh để phục vụ cuộc sống của mình: sử dụng tinh bột ủ men nấu rượu, muối dưa, làm sữa chua, …
Vào thế kỷ thứ XVIII, Lavoisier A (1743-1794) đã đưa ra quan niệm cổ điển về hô hấp tế bào rằng các động vật có thể chuyển các nhiên liệu hóa học (của thức ăn) thành nhiệt và rằng quá trình hô hấp này là cần thiết cho sự sống.
Năm 1890, Fischer E đã đề ra thuyết “ổ khóa và chìa khóa” để giải thích tính đặc hiệu tuyệt đối của enzym đối với cơ chất.
Thời kỳ từđẩu thế kỷ XX đến trước 1953
Chỉ đến đầu thế kỷ XX, nhờ sự tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, nhiều phương pháp nghiên cứu mới về hóa học; vật lý và sinh học ra đời, ngành hóa sinh mới bắt đầu thu được những thành tựu to lớn.
Vào cuối những năm 1930, Pauling L và Corey R đã sử dụng phương pháp nhiễu xạ tia X xác định được cấu trúc bậc hai xoắn a và xoắn p của phân tử protein.
Năm 1947, Cori G, Cori c và Houssay BA đã được giải Nobel vì phát hiện ra sự chuyển hóa của glỵcogen.
Năm 1953, Sanger F tìm ra cấu trúc của phân tử insulin (Nobel 1957).
Năm 1953 Krebs H và Lipmann AF đã được nhận giải Nobel vì phát hiện ra chu trình acid citric.
Thời kỳ tử 1953 đến nay: thời đại sinh học phân tử
Vào năm 1953, việc khám phá ra cấu trúc xoắn kép của phân tử DNA – một đại phân tử quyết định tính chất di truyền của sự sống – của Watson J (người Mỹ, sinh năm 1928) và Crick F (người Anh, sinh năm 1916) (Nobel 1962) đã mở đầu cho cuộc cách mạng về sinh học phân tử.
Năm 1957, Kendrew J đã tìm ra cấu trúc bậc ba của myoglobin (giải Nobel 1962).
Năm 1959, Ochoa s và Kornberg A đã được nhận giải Nobel do đã phát hiện ra cơ chế sinh tổng hợp của DNA và RNA.
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
hóa học 12
0 nhận xét:
Đăng nhận xét